KẾ MÔN QUÊ TÔI 18-11-2022 Thao Nguyen
Tác giả: Nam Sơn – Hoàng Đông
*Giới thiệu :
Có lẽ những bậc lão niên tầm 70-80 tuổi đang trải qua gần cả cuộc đời ở làng, hay những đồng hương sống tha phương, từng một thời ấu thơ niên thiếu gắn bó với quê nhà như chúng ta, khi được hỏi “làng ta có những gì: có bao nhiêu cồn ngoài đồng, bao nhiêu bàu trong rú, bao nhiêu am miếu rải rác từ đầu tới cuối làng, họ này họ kia ra sao…rồi những tích xưa, chuyện cũ về làng từ xa xưa…”, thì hẵn là không ai có thể nhớ và kể lại một cách tường tận hết mọi thứ. Có lẽ, theo tôi biết, chỉ trừ một người : đó là nhà thơ bình dị, người con của Kế Môn, có bút danh là Nam Sơn và Hoàng Đông.
Điều đó quả thật không sai khi ta đọc qua bài vè sau đây của tiên sinh, miêu tả chi tiết về cảnh làng qua 138 câu vè, dẫu mộc mạc đơn sơ nhưng chứa đầy cảm xúc và ý nghĩa. Qua bài vè này, người đọc có thể hình dung ra một bức tranh sống động đầy màu sắc của ngôi làng Kế xưa cũng như nay, mà có lẽ, không một họa sĩ tài danh nào có thể vẽ lên được đầy đủ như vậy. Đến nỗi, nhiều người làng đã quả quyết rằng : muốn biết về làng Kế Môn ư ? chỉ cần đọc bài vè “Kế Môn quê tôi” của Nam Sơn – Hoàng Đông ! Thực hư ra sao ? Xin mời các bạn cùng đọc:
.
Bao giờ trở lại quê hương,
Ô-Lâu nước biếc, một đường chảy ngang.
Nhìn vào đồng ruộng mênh mang
Bốn con hói dọc[1], hói ngang nối dài.
Bờ rào rồi đến đường quai[2],
Đứng giữa Cồn Nổi ngắm hoài thêm mê.
Các bến tròng nốt bộn bề,
Đến mùa gặt hái đồng quê rộn ràng.
Bến Đíu nằm trước đình làng,
Sau độn Lại Tải trấn an dân mình.
Đường Ngang nằm ở sau đình,
Hai bên hai họ Trần-Huỳnh xinh xinh.
Đường Quan “bốn chín” trước đình,
Nối liền Quảng Trị dân tình bán buôn.
Ngũ hành miếu ở cuối thôn,
Lò Rèn, Xóm Đập, mội trong dân hiền.
Nguyễn Văn[3] xây cạnh lò rèn,
Dân họ đóng góp của tiền dựng nên.
Dòng khe Đại Lộc kề bên,
Chảy ra Đồng Dạ bọc miền ruộng ta.
Nhìn ngược lên Khút xa xa,
Hàm Rồng, Hói Gạch thẳng tòa Vĩnh Xương.
Vào làng chỉ có một đường,
Sau ranh độn cát Vĩnh Xương, bàu Cuồng.
Miếu Bà Chúa Ngọc đầu thôn,
Rồi qua Văn Thánh, giáp rồn Miếu Đôi.
Xưa kia Hán học thi rồi
Vinh quy bái tổ, hoa khôi bảng vàng
Lui về theo dọc đường Ngang
Phía trên nhà ở lớp hàng phân minh.
Mỗi xóm có lũy tre xanh,
Mỗi nhà có giếng nước lành trong veo
Nhà khá cho đến nhà nghèo
Bước vô sân ngõ giếng ao gọn gàng
Họ Bùi, họ ở đầu làng
Thành nội, thành ngoại cửa đàng lầu cao
Tiền đường hậu tẩm đẹp sao
Lưỡng long triều nguyệt khác nào cung vua
Trên rú Bàu Đán thuở xưa
Nước chảy cứu hạn đồng trưa của làng
Thiên Chúa thờ sát đường Ngang
Dân Họ mới lập lợp toàn bằng tôn
Ở đời kẻ dại người khôn
Đừng cậy quyền thế tiếng đồn tràn lan
Xuôi về họ Đặng họ Phan
Hoàng Ngọc gần rú lợp toàn bằng tranh
Rồi xuống hai họ Nguyễn Thanh
Đi qua Xóm Cụt vòng quanh lên cầu[4]
Khe Phụ nước chảy về đâu
Chảy ra Đạt Khẩn[5] ở sau trường làng
Thổ Kỳ miếu vũ cầu an
Họ Lê trước xóm đàng hoàng đẹp thay
Họ Hoàng dưới bến nơi đây
Nhân dân bốn bến lập xây nhà thờ
Rồi qua Xóm Cụt hiện giờ
Trước, trường chữ Hán, nay vừa chữ Ta
Phan Văn[6] cách xóm không xa
Dân Họ ít ỏi làm nhà thờ riêng
Trần Văn[7] cách xóm kế bên
Trần Đăng[8] gần rú, Nghè liền phía sau
Xưa kia Võ tướng Công hầu
Oai linh hiển hách đâu đâu kiêng vì
Khi làng có chuyện lâm nguy
Ăn chay cầu đảo vậy thì bình an.
Huỳnh Trần hai họ sau làng
Nhà thờ lợp ngói, cửa đàng thành xây
Bàu Môn sau rú đâu đây
Ở nơi chân độn[9] thẳng ngay Đình làng
Ngôi chùa Vạn Phước huy hoàng
Phụng bay, rồng lộn, tiền đàng nguy nga
Hai lầu chuông trống vang xa
U minh cảnh tỉnh dân ta tháng ngày
Điện thờ tượng Phật đẹp thay
Xa gần đóng góp dựng xây chùa chiền
Canh Tý đặt đá đầu tiên
Giáp Thìn sáu bốn[10] hội phiên khánh thành
Trống cờ rợp đất đua chen
Mười phương lễ bái lạ quen nghẹt người
Đường Ngang đi thẳng về xuôi
Họ Hồ trầm tĩnh một trời Nhứt Đông
Rồi qua cho đến Xóm Cùng
Ghé am Võ Thánh Quan Công phụng thờ
Trần Đình mới dựng bây giờ
Bình phong cửa ngõ đơn sơ gọn gàng
Rồi ra ngoài đập cuối làng
Có ngôi Tân Miếu bệ vàng rất linh
Xưa kia quan võ Triều đình
Có vợ Đại Lộc ngoại tình thơ rơi
Trung cang nghĩa khí nhất thời
Vì vợ vu cáo cuộc đời thác oan
Luôn luôn phò hộ dân làng
Mỗi năm Tết đến đặt bàn cầu yên
Băng qua độn cát thấy liền
Thấy khe Ngòi Viết giáp nguyên Truông Tàu
Đồng khoai trồng mãi đến đâu
Từ khe Đại Lộc đến bàu Vĩnh Xương
Bàu Lấp, bàu Nứt cuối truông
Băng qua bàu Bể thấy dương Mả Ngài[11]
Trần Huỳnh Thỉ Tổ bên ngoài
Bên trong mồ mả kéo dài khắp thôn
Mả lớn cho chí mả con
Lăng bia chen chúc độn trong độn ngoài
Âm Hồn tảo mộ tháng Hai
Thờ ba ngôi miếu điện đài phân minh
Rồi ra ghé lại thăm Đình
Năm căn hương án thần linh phụng thờ
Bình phong ngự thẳng cột cờ
Hai bên nhà Hội[12] đình thờ chữ Môn
Đến khi có lễ toàn thôn
Nhân dân lễ bái bảo tồn thuần phong
Hương xông trầm đốt đèn chong
Thần Hoàng cảm niệm ghi công tiên hiền
Khai canh, khai khẩn đầu tiên
Tạo dựng cơ nghiệp thổ điền cho dân
Đồng trưa, đồng ruộng mênh mông
Huyện cồn, Thót, Cửa, Chứa, Nôn khác làng[13]
Cày sâu cuốc bẩm chuyên cần
Mỗi năm hai vụ đủ phần ấm no
Khi nên trời cũng giúp cho
Làm ruộng phải tính phải so mới giàu.
Tha phương cầu thực đâu đâu
Mỗi năm Tết đến rủ nhau về làng
Thợ nề, thợ mộc, thợ vàng
Nề mộc tương đối, nghề vàng làm nên
Bánh bèo bánh ướt quay kem
Đầu lạ đắp đổi sau quen lắm tiền
Luôn luôn nhớ đến tổ tiên
Mỗi năm Tết đến thay phiên nhau về
Bà con, chú bác bốn bề
Thăm mồ thăm mả thăm quê của mình
Quay về bái tạ Đình thiêng[14]
Nhờ phong thổ tốt dân mình làm nên
Muốn cho tài lộc vững bền
Kế Môn đất tổ phải nên hướng về
Góp tiền xây dựng làng quê[15]
Bồi đắp xứ sở tưởng về hậu lai
Dân làng bất cứ ai ai
Kế Môn hai chữ nhớ hoài đừng quên.
.
*CHÚ THÍCH :
-[1] : 4 hói gồm :Hói bến Dừa, bến Phụ, bến Đình, bến Đưới.
-[2] : Đê bao nhỏ phía trong bờ rào.
-[3] : nguyên văn : Họ Nguyễn
-[4] : Trước đây từ xóm Cụt qua xóm Khe (Ông Phụ) con đường nhỏ và uốn cong (lên hướng rú) chứ không thẳng như bây giờ.
-[5] : Tên một dòng ruộng ( nhất đẵng điền) nằm giữa đường Quan và hói Ngang, sát ngược bến Phụ.
-[6] : nguyên văn : Họ Phan.
-[7]: nguyên văn : Trần Đình.
-[8] : nguyên văn : Trần Văn.
-[9] : Phía trên và sát đường Cấy.
-[10]: Chùa khánh thành năm Giáp Thìn 1964.
-[11]: nguyên văn : “Bàu Nức, bàu Bể, bàu Cuồng
Bàu rèn Lấp trước thấy dương mả Ngài”
-[12]: nguyên văn : “trường học”
-[13]: năm cồn : cồn Huyện, cồn Thót, cồn Cửa, cồn Chứa và cồn Nôn là ruộng cồn của Kế Môn nhưng ở địa phận các làng khác.
-[14]: nguyên văn : “ Rồi ra ghé lại thăm đình” ( câu này lặp lại ý và từ của một câu trước đó, nên đề nghị tạm thời đổi lại như trên).
-[15] : nguyên văn : hương quê.
*Giới thiệu và chú thích : THẢO NGUYÊN
Bình luận
Chưa có bình luận nào.
Bình luận