VỀ MỘT TÊN GỌI 27-04-2013 minhhien
Bài của anh Hoàng Dục
1. Lên trang web Làng Kế Môn thấy chạy hàng tít “Đoàn múa náp làng Kế Môn diễn tại làng Phước Tích”. Sau hàng tít là dòng tin : “Ngày 16/8/2011 (17/7 Tân Mão), mặc dầu trùng vào ngày lễ Thu Tế của làng Kế Môn, Ban Văn Hóa làng cũng đã cử đoàn múa Náp của làng tham gia chương trình “Đêm hội văn nghệ Dân gian làng cổ Phước Tích”, tại làng Phước Tích, huyện Phong Điền theo lời mời của Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế”. “Theo yêu cầu của Ban Tổ Chức, làng Kế Môn cử 3 đội múa Náp tham dự chương trình”.
Múa Gươm làng Kế Môn – Ảnh Đặng Hữu Hùng
Đọc bản tin, trong tôi dậy lên bao câu hỏi : múa Náp là gì? Ở làng Kế Môn có điệu múa Náp sao? Nhưng đọc kĩ và xem hình ảnh kèm theo, hóa ra đây là “Múa gươm” (người dân thường gọi tên bằng phương ngữ : “Lộn gươm”), một hình thức nghi lễ văn hóa dân gian của làng vốn có từ xa xưa. Nhưng tại sao lại có hiện tượng trái khoáy thế này ? “Múa Gươm” trở thành “múa Náp” ! Ai đã đặt (đúng hơn là cải tên) cho điệu múa của làng, một điệu múa đã đi vào tâm thức của người Kế Môn bao đời nay, đã trở thành nét đẹp văn hóa tinh thần mà dân làng mãi gìn giữ và phát huy, bằng một cái tên xa lạ như vậy ? Và tôi bỗng đâm ra hoài nghi chính mình : cái biết của mình ít ỏi, trong khi đó tri thức nhân loại thì vô cùng, làm sao đem cái hữu hạn của trí tuệ mình mà đong hết, chứa hết cái vô cùng ấy ! Biết đâu đó, điệu múa Gươm ở làng Kế Môn còn có tên gọi là múa Náp ?
Dù tự nhủ như thế nhưng trong tôi vẫn không hết băn khoăn. Tôi vội lật tìm trong “Từ điển Văn hóa Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, trong tất cả các điệu múa cung đình và múa dân gian, không có mục từ múa Náp. Vậy là phải nhờ trợ thủ thân thiện google, hóa ra có điệu múa Náp thật. Trang tìm kiếm hiện ra rất nhiều bài viết, phần lớn quảng bá điệu múa Náp của làng Tân Mỹ, xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Có thể kể một số bài tiêu biểu :: “Múa náp, đặc sắc văn hóa Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế” (không có tên tác giả), trang Tin tức du lịch, 1/2011; “Sống lại điệu múa Náp” của Đoàn Vũ, báo Tin Tức, 4/2011; “Múa náp hồi sinh sau gần thế kỉ” của Minh Ngọc, báo Lao Động điện tử, 1/2011; “Khôi phục điệu múa Náp truyền thống” (không có tên tác giả), báo Việt Nam nay, 10/2011,… Riêng múa Náp ở làng biển Mỹ Tân, thuộc xã Thanh Hải, nằm cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 20 cây số về hướng Đông – Bắc có 2 bài trong đó có “Đặc sắc múa Náp” của Thái Sơn Ngọc đăng trên – Báo Ninh Thuận,7/2011.
2. Qua những bài viết về múa Náp ở Tân Mỹ, Quảng Ngạn, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế; ở làng Mỹ Tân, Ninh Thuận, tôi thử làm phép đối sánh từ tên gọi đến lịch sử, từ trang phục đến đạo cụ, từ vũ điệu đến mục đích và ý nghĩa,… với cái gọi là múa Náp ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế (mà tôi biết), mong giải quyết thỏa đáng về tên gọi cho điệu múa truyền thống lâu đời của làng Kế Môn. Chỉ cần thao tác so sánh đơn giản cũng thấy múa Náp của ba vùng đất có nét giống nhau nhưng cũng rất nhiều điểm khác biệt.
Làng/Mục | KẾ MÔN (TT – Huế) | TÂN MỸ (TT- Huế) | MỸ TÂN (Phan Rang) |
Ra đời | Thế kỉ XV (nông nghiệp, khi lập làng, mỗi tộc họ có một đội múa). | Thế kỉ XIX (ngư nghiệp, đời Gia Long, cả làng chỉ một đội múa). | Thế kỉ XVII (ngư nghiệp, khi lập làng, cả làng chỉ một đội múa). |
Số người | 11, tráng đinh, gồm 1 ông cai và 10 vũ sinh | 20, thiếu niên (10-15 tuổi), chia làm 5 nhóm, mỗi nhóm bốn người. | 8-10, thanh niên, gồm 1 ông cai, còn lại là vũ sinh. |
Trang phục | Khăn đóng, áo dài xanh, đen; quần trắng, thắt lưng vàng, đỏ, giày trắng. | Chít khăn cùng màu với áo quần, áo quần đồng màu gồm các nhóm màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây, hồng. | Người múa náp đầu chít khăn, mặc quần áo rộng, lưng cuốn đai, chân cuốn xà cạp đi giày vải bó như những đội thủy binh thời xưa. |
Đạo cụ | – Vũ sinh : Hương – gươm – đèn hộp giấy có trang trí hoa văn. |
– Ông cai dùng đèn trụ (đèn sáp gắn trên ống nứa, bọc giấy màu, quấn trang kim, tua) – khăn vải đỏ’ Gậy – đèn (không rõ hình thức) Chiếc Náp như một thanh đao dài 100cm, phần lưỡi 40cm dành cho vũ sinh, ông cai dùng cặp sanh.Vũ đạoLên một xuồng hai, tam xà, tứ trụ, gài lóng mốt…Tam xà, tứ trụ, vô búp (búp sen), ra nở (sen nở), đi vòng số 8Bái tổ, ba thoi, đá đầu, đánh cán, đánh lưỡi, nhảy ngựa, tạ hàng ngang, tạ hàng xuôi, sắp mặt, sắp lưng, ra lưng, nhảy trái…Mục đíchMúa chủ yếu trong các lễ tang của những người trong dòng tộc.Gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến và lễ cầu ngư.Cúng đình, cúng lăng Ông Nam Hải.
Bảng so sánh đã cho ta cái nhìn tương đối về điệu múa của ba vùng đất. Nhưng dù tương đối, ta vẫn có thể thấy được, giữa điệu múa làng Kế Môn và Mỹ Tân (Phan Rang) rất khác biệt, tại sao lại có cùng tên múa Náp?
Điều đáng chú ý là điệu múa của làng Kế Môn với làng Tân Mỹ. Bởi ca hai về vũ đạo có chỗ giống nhau và mục đích ý nghĩa. Nếu cho rằng điểm giống nhau đó bắt nguồn từ không gian định cư thì cũng có cái lí của nó. Cả hai làng dẫu khác huyện, một bên là Phong Điền, một bên là Quảng Điền, nhưng đều thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Hơn nữa cả hai đều nằm trên trục đất cát trắng phía Bắc cửa biển Thuận An, nên có sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau. Đấy là xét từ không gian sinh sống, còn xét về không gian văn hóa lại khác. Từ góc nhìn không gian văn hóa ta thấy sự sinh thành và phát triển múa Náp của Kê Môn và Tân Mỹ khá xa lạ. Tân Mỹ và Mỹ Tân là không gian biển, người dân ở hai miền này đều sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản; riêng Kế Môn là một làng thuần nông. Từ không gian cộng đồng, từ hai nền văn hóa khác nhau, văn hóa lúa nước và văn hóa biển, làm sao có điệu múa giống nhau. Nếu giống, có chăng chỉ Tân Mỹ và Mỹ Tân, còn Kế Môn thì hẳn là khác biệt, cho nên điệu múa nghi lễ văn hóa của Kế Môn được gọi tên múa Náp là không ổn. Ở đây, cũng xin nói, nếu dựa vào quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa thì cũng không thể lí giải ổn thỏa được. Bởi vấn đề đặt ra là điệu múa làng nào chịu ảnh hưởng của làng nào ?
Để giải thích có lẽ nên nhìn hai điệu múa của hai làng Kế Môn và Tân Mỹ từ điểm nhìn thời gian lịch sử chẳng ? Nhìn từ góc độ thời gian, làng Kế Môn hình thành từ thế kỉ thứ XV, điệu múa gươm của làng ra đời từ cái mốc lịch sử ấy nên cũng có bề dày truyền thống hơn 5 thế kỉ. Trong khi đó, điệu múa Náp của làng Tân Mỹ, huyện Quảng Điền, căn cứ bài viết của hai tác giả Đoàn Vũ và Minh Ngọc thì :
“Vào đời vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Quảng Ngạn giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến.
Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền, do những người tuổi cao, sức yếu, không truyền lại cho con cháu. Nhận thấy điệu múa náp có nguy cơ biến mất hẳn, từ năm 1994, các ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ đã thu thập, biên soạn để phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản”.
Qua đoạn văn có thể thấy, trước khi vua Gia Long khuyên, điệu múa ấy chỉ là “một đám đông tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt”, sau đó “dân làng mới duy trì điệu múa”, “giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỉ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến” hay “giữ gìn điệu múa này như một “báu vật” của quê hương”. Chỉ đến khi vua Gia Long khuyên, điệu múa Náp của làng biển Tân Mỹ mới chính thức ra đời vào thế kỉ XIX như là một nghi lễ văn hóa dân gian. Nhưng rồi “Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền”, tức là gần hết thế kỉ XX. Năm 1994, sau khi tập luyện để biểu diễn trong lễ khánh thánh đình làng “đội múa lại tan rã”.
Điều băn khoăn là: một điệu múa truyền thống đặc sắc được người dân “Quảng Ngạn giữ gìn”, đã trở thành “điệu múa dân gian truyền thống”, là một “báu vật” quê hương, thậm chí “điệu múa này đã gắn bó với đời sống văn hóa tâm linh của người dân” tại sao lại có hiện tượng đứt đoạn gần 100 năm ? Ngay cả khi khôi phục vẫn tan rã ?
Từ hoài nghi này, ta có thể thấy chỗ không thuyết phục về sự lịch sử hình thành điệu múa Náp của làng Tân Mỹ như các bài báo đã viết. Và cũng từ đó cho ta một kết luận sơ bộ : dù vũ đạo có giống nhau, nhưng đó là giống nhau do sự tiếp biến, còn tên gọi không thể là một. Múa Náp phải chăng chỉ là điệu múa của Tân Mỹ và Mỹ Tân, điệu múa của cư dân miền biển trong lễ cầu ngư. Còn điệu múa của làng Kế Môn thì không thể gọi tên như vậy được.
Điều băn khoăn nữa là về cái tên múa Náp. Tại sao có tên múa Náp ? Náp là gì ? Lần theo bài viết của Đoàn Vũ, tôi bắt gặp câu : “Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm, được cất giữ tại các họ tộc”, và theo Minh Ngọc : “Các ông Đa, Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm được cất giữ tại các gia phả họ tộc trong làng”. Chính hai câu văn này đã cho tôi một cơ sở để tìm hiểu khái niệm Náp là gì. Lật giở những từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, của Nguyễn Văn Khôn có trong tủ sách gia đình vẫn không thấy từ “Náp”, tranh thủ giờ nghỉ tìm những từ điển khác ở Thư viện Đại học Duy Tân vẫn không. Hay “Náp” là từ Nôm ? Tôi thử tìm trong “Bảng tra chữ Nôm” của Viện Văn học (1976) cũng chẳng có từ Náp nào ! Không có từ Náp, nghĩa là không thể gọi tên sự vật, từ đó cũng khó hình dung được bản chất của sự vật hiện tượng đó là gì ? Hay từ Náp là phương ngữ ? May thay, bài viết của Thái Sơn Ngọc trên báo Ninh Thuận cho tôi một cái nhìn. Đọc câu : “Chiếc náp dài khoảng 100 cm, phần lưỡi dài khoảng 40 cm, hình thức như một thanh đao” mới thấy, người dân Mỹ Tân lấy tên đạo cụ – cái náp để gọi tên điệu múa của họ.
Điều này hoàn toàn hợp với cách gọi tên các điệu múa dân gian của người Việt. Phổ biến nhất là lấy đạo cụ đặt tên điệu múa. Có thể kể một số điệu múa được đặt tên theo cách ấy. Múa Bã Trạo, tức là mùa chèo thuyền, đạo cụ là mái chèo; múa Bồng ở hội Láng, ở hội Triều Khúc, Bắc Bộ Việt Nam, đạo cụ là chiếc trống bồng đeo trước bụng người múa; múa Đọa pụ, tức là Đội nước của người Chăm, mô phỏng động tác, hình dáng của cô gái Chăm đi lấy nước về nhà, họ đội mỗi cô một bình nước trên đầu; múa chạy Gậy ở Đông Sơn, Thanh Hóa, khi tham gia múa, mỗi trai đinh vác một cây gậy bằng tre dài 1, 5m quấn giấy xanh đỏ; múa Chạy cày ở Đan Từ và Nghĩa Lập, tỉnh Vĩnh Phú mô phỏng công việc cày bừa nặng nhọc trong sinh hoạt mùa vụ, mỗi người tham gia múa cầm một cái bắp cày; múa Lân đạo cụ là con lân, múa Rồng đạo cụ là con rồng;…
Múa Gươm làng Kê Môn – Ảnh Đặng Hữu Hùng
Từ tập quán gọi tên các điệu múa dân gian nêu trên có thể nói rằng, gọi điệu múa dân gian của làng Kế Môn là múa Náp là không hợp lí, bởi đạo cụ là gươm : “Gươm gồm một bộ 10 cái, đó là bộ tế khí thường thờ trong từ đường của từng tộc. Gươm bằng gỗ, dài khoảng 1,5 mét, hình dáng là một cây gươm đang tra trong vỏ, chia làm hai phần: phần cán ngắn và phần vỏ dài, sơn son thếp vàng”. Bộ gươm là bộ tự khí thờ trong các từ đường họ tộc. Tất cả các họ : Bùi Viết, Phan, Đặng Hữu, Nguyễn Thanh, Lê Cảnh, Trần Đăng, Trần Văn, Trần Duy, Hoàng Ngọc, Hồ Tá,… họ nào cũng có một đội gươm múa trong tang lễ của người trong tộc họ; chứ không phải chỉ một đội của làng như ở Tân Mỹ và Mỹ Tân. Và điệu múa của làng Tân Mỹ, theo cách gọi tên dân gian, phải là múa Gậy hay múa Đèn như em Nguyễn Thị Nhung, một sinh viên xem biểu diễn điệu múa này đã gọi tên.
Nói tóm lại, qua những gì đã trình bày, có thể nói rằng, gọi điệu múa nghi lễ truyền thống lâu đời của làng Kế Môn bằng cái tên múa Náp là hoàn toàn khiên cưỡng, không có lí lẽ thuyết phục. Múa Gươm là tên gọi duy nhất đúng và chỉ với tên gọi ấy mới có thể chỉ ra được bản chất, cái hồn, vẻ đẹp nghệ thuật, văn hóa của vũ điệu, thể hiện trọn vẹn mục đích ý nghĩa của nó. Và chỉ có tên gọi “Múa Gươm” mới thỏa mãn được nhu cầu tâm lí, tình cảm của người dân Kế Môn bao đời về một điệu múa đậm sắc văn hóa quê hương họ.
Trên đây là thiển ý có phần chủ quan của tôi, chắc hẳn vẫn còn nhiều điều bàn bạc. Người viết chỉ mong được đồng cảm và sẻ chia về nét đẹp văn hóa của làng quê yêu thương và tự hào của mình mà thôi.
Hoàng Dục
28-4-2013
_________________________
PHỤ LỤC :
1. MÚA GƯƠM
Còn gọi là múa Náp. Là một điệu múa dân gian gắn liền với các nghi lễ tang ma, lễ hội ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Việt Nam.
Hiện nay không rõ múa Gươm ra đời từ bao giờ. Nhưng tộc họ nào cũng có đội múa gươm, mỗi khi tang ma, tế lễ đều trình diễn như là một lễ thức. Đội hình múa gồm mười một tráng đinh, trong đó có: ông Cai và mười đội viên. Ông Cai đầu đội khăn đóng xanh, đeo kính đen, mặc áo nhiễu xanh, thắt lưng đỏ buộc múi chéo buông xuống bên hông, quần trắng, đi hia trắng hoặc giày cao ống trắng, hai tay cầm hai cây nến quấn giấy xanh đỏ, trang trí giấy trang kim, có tua, cổ tay quấn khăn đỏ. Ông Cai là người điều khiển các màn múa, các điệu múa, các nhịp múa bằng đèn qua động tác tay. Mười đội viên đội khăn đóng đen, mặc áo the đen, quần trắng, đi giày, một tay cầm gươm, một tay cầm đèn. Gươm gồm một bộ 10 cái, đó là bộ tế khí thường thờ trong từ đường của từng tộc. Gươm bằng gỗ, dài khoảng 1,5 mét, hình dáng là một cây gươm đang tra trong vỏ, chia làm hai phần: phần cán ngắn và phần vỏ dài, sơn son thếp vàng. Đèn là hình hộp vuông đáy nhỏ, miệng to, được làm bằng nan tre, dán giấy nền có trang trí hoa lá, trên miệng đèn ở các góc có dán các cánh hoa, trong thắp nến. Mười đội viên chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 5 người. Hai nhóm khác nhau ở thắt lưng và tay cầm kiếm, cầm đèn. Nhóm này thắt lưng vàng buộc múi chéo buông bên hông phải, tay phải cầm đèn tay trái cầm gươm. Nhóm kia thắt lưng đỏ, buộc múi buông bên hông trái, tay phải cầm gươm, tay trái cầm đèn. Hai nhóm này khi tách ra hai hàng sẽ tạo nên sự cân đối, hài hòa.
Ảnh từ trang web Làng Kế Môn
Múa gươm gồm bốn phần: Phần lễ, phần múa, phần dàn chào và phần đưa rước. Phần lễ, đội múa chưa cầm gươm mà cầm hương, sau đó theo lệnh của ông cai họ múa lạy trước bàn thờ. Sau khi lễ xong, họ bắt đầu đi theo vòng tròn, lúc này người giữ gươm sẽ trao gươm cho người múa và cuộc múa bắt đầu. Đây là cao trào của múa Gươm. Kết thúc phần múa, đội tách hai hàng đứng đối diện nhau, bồng gươm dàn chào. Khi đám đưa, hay rước kiệu, hai hàng gươm này sẽ đi trước đưa hoặc rước. Các màn múa gồm lên một xuống hai, tam xà, tứ trụ… khi đi nhịp chậm, khi chạy lúc thúc, khi uốn lượn, khi quấn quýt nhau, khi tỏa rộng ra… trông rất sinh động.
Múa Gươm của làng Kế Môn là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc. Ngày nay, múa Gươm của làng Kế Môn không chỉ đóng khung trong làng mà còn tham gia biểu diễn ở các lễ hội lớn trong tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Hoàng Dục viết
Đăng trên http://nguoikemon.blogspot.com/
2. Sống lại điệu múa náp
Ngày trước, điệu múa náp đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu ở các lễ hội cầu ngư, ma chay ở vùng biển. Sau gần 100 năm thất truyền, múa náp đã được người dân vùng biển ở thôn Tân Mỹ (xã Quảng Ngạn, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế) phục hồi nguyên bản với những nét đặc trưng truyền thống.
Điệu múa náp đang hồi sinh.
Vào đời vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Quảng Ngạn giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến.
Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền, do những người tuổi cao, sức yếu, không truyền lại cho con cháu. Nhận thấy điệu múa náp có nguy cơ biến mất hẳn, từ năm 1994, các ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ đã thu thập, biên soạn để phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản.
Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm, được cất giữ tại các họ tộc. Riêng ông Phan Đăng Khoa vừa thủ vai ông cai, vừa làm “ông bầu” của 2 đội múa náp thanh niên và thiếu niên. Ông Khoa tổ chức đội múa náp có 20 người, chia làm 5 nhóm. Họ mặc trang phục màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây… và đạo cụ là đèn, gậy.
Mỗi lần trình diễn điệu múa náp diễn ra khoảng 30 phút, gồm các tiết mục múa là Tam xà, Tứ trụ, Vô búp sen, Sen nở… Đội múa đa số là các em thiếu nhi, là những hạt nhân gìn giữ điệu múa náp trong tương lai của làng.
Đến nay, múa náp ở Tân Mỹ không những được sống lại sau gần một thế kỷ vắng bóng, mà còn được đưa vào khai thác trong dự án “Du lịch cộng đồng” của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội và tour du lịch khám phá “Tam Giang huyền thoại”.
ĐOÀN VŨ
3. Giữ hồn điệu múa cổ
Tương truyền vào đời Vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, có kết hợp một số cử chỉ uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Tân Mỹ giữ gìn điệu múa này như một “báu vật” của quê hương. Gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này đến – vừa chia sẻ nỗi buồn cùng gia quyến, đồng thời nhảy múa để xua đuổi ma quỷ giúp linh hồn người chết được siêu thoát.
|
Ông Đăng Khoa trong vai ông cai dẫn đầu đội hình múa náp thiếu niên. Ảnh: Minh Ngọc |
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các làn điệu múa náp dần dần mai một. Những thế hệ biết nhảy náp bài bản nhiều người giờ đã quy tiên. Người còn sống do tuổi cao, sức yếu, khó có thể chỉ vẽ cho con cháu điệu múa truyền thống của làng. Ông Trần Đình – một người dân ở thôn Tân Mỹ – tâm sự: “Lúc còn nhỏ, đứa mô trong làng được chọn đi múa náp là oai lắm. Hồi nớ không có đồng phục đẹp như bây chừ, toàn đi chân đất, đời ông cha tui chừ ri là hết nhảy náp được rồi, chỉ mong con cháu sau này, gìn giữ vũ điệu của tổ tiên truyền lại”.
Nhận thấy “báu vật tâm linh” có nguy cơ biến mất, từ năm 1994, ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa… và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ – đã tiến hành thu thập, biên soạn “ giáo án” phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản. Mỗi người một việc. Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm được cất giữ tại các gia phả họ tộc trong làng. Riêng ông Khoa chịu trách nhiệm vừa thủ vai ông cai vừa là “bầu sô” của 2 đội múa náp thanh niên và thiếu niên. Theo lời ông Khoa, đội múa náp thường có 20 người, chia làm 5 nhóm, trang phục màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây, hồng. Với đạo cụ là đèn hoặc gậy, điệu múa náp diễn ra từ 25-30 phút.
Một sản phẩm du lịch độc đáo
Trước đây, điệu múa náp vốn chỉ có các màn: Tam xà, tứ trụ, vô búp (búp sen), ra nở (sen nở), đi vòng số 8 với số lượng từ 20-24 người tham gia. Để điệu múa sinh động hơn, những người trong Ban biên soạn múa náp làng Tân Mỹ cải biên thêm vào một số động tác như: Tứ trụ sen, đi hàng một hàng hai và hàng chéo… Điều đặc biệt là lớp thiếu niên rất thích múa náp – nhất là những dịp có lễ hội cầu ngư và dịp tết cổ truyền. “Khi bắt tay khôi phục điệu múa náp truyền thống, chúng tôi rất chú trọng đến các em nhỏ, đây chính là những hạt nhân múa náp trong tương lai của làng Tân Mỹ” – ông Khoa nói.
Bây giờ, múa náp ở Tân Mỹ không những được sống lại sau gần một thế kỷ vắng bóng, mà còn được đưa vào khai thác du lịch. Mới đây, Cty TNHH du lịch An Thạnh kết hợp dự án du lịch cộng đồng do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội đã đưa điệu múa náp của làng Tân Mỹ vào tour du lịch khám phá “Tam Giang huyền thoại”.
Từ ngày múa náp vào tour, cuộc sống của người dân Tân Mỹ sôi động hẳn lên. Khắp các khoảnh đất nhỏ có mái che – vốn là nơi sinh hoạt của thôn – được trưng dụng làm nơi biểu diễn. Khi chúng tôi đến Tân Mỹ, cũng là lúc đội múa náp chuẩn bị đón khách du lịch. “Dù đã nhiều lần đón khách, nhưng tụi em vẫn thấy hồi hộp như lần đầu” – Dũng – một thành viên đội múa – tâm sự. Khách đến, cả đội hàng ngũ chỉnh tề rồi say sưa trong các điệu múa. Trên nền tiếng trống, khèn lúc rộn rã, khi réo rắt, những bước di chuyển tam xà, tứ trụ, tam lang, tứ lang, vô búp, ra nở… của các em làm khách trầm trồ thán phục.
Tiếng lành đồn xa, nhiều người dân Tân Mỹ lập nghiệp trên thành phố – thậm chí có người ở tận trong Nam, ngoài Bắc – mỗi khi gia đình có việc ma chay, họ thuê đội múa náp thanh niên đến để múa náp trước linh cữu người quá cố. Nhiều “Mạnh Thường Quân” kiều bào ở nước ngoài là con em Tân Mỹ thấy việc khôi phục điệu múa cổ rất ý nghĩa đã gửi tiền về tài trợ trang phục, đạo cụ biểu diễn. Ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ – cho biết, năm nào huyện Quảng Điền tổ chức liên hoan văn nghệ, đội múa náp Tân Mỹ cũng tham gia.
Minh Ngọc
4. Đặc sắc múa náp
Cùng với hò bả trạo, hát giao duyên thì múa náp là loại hình văn hóa dân gian mang tinh thần thượng võ có giá trị bền vững trong đời sống cư dân làng biển.
(NTO) Múa náp là một trong những loại hình văn hóa dân gian đặc sắc của cư dân miền biển tỉnh ta. Trải qua hơn ba trăm năm khai hoang lập ấp, múa náp đã đồng hành với đời sống tinh thần của ngư dân Mỹ Tân. Mỗi đường siêu, thế võ trong múa náp thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của cha ông thời mở cõi, nhằm bảo vệ cuộc sống thôn xóm bình yên.
Nghi thức cúng nghinh Ông Nam Hải tại làng biển Mỹ Tân.
Nằm cách Tp. Phan Rang- Tháp Chàm khoảng 20 cây số về hướng Đông-Bắc, làng biển Mỹ Tân thuộc xã Thanh Hải, nổi tiếng với nghề đánh cá phát triển thịnh vượng vào bậc nhất của huyện Ninh Hải. Cảng Mỹ Tân tấp nập tàu thuyền trong và ngoài tỉnh đến neo đậu mua bán hải sản và tiếp tế nhiên liệu. Mỹ Tân còn bảo tồn nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của làng biển Nam Trung Bộ. Tương truyền cư dân Mỹ Tân ngày nay có nguồn gốc từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đến sinh cơ lập nghiệp từ hơn 300 năm trước. Cùng với việc di dân, cha ông mang theo phong tục, tập quán đến vùng đất mới lưu truyền cho con cháu. Những người thuở khai hoang mở cõi được dân làng tôn làm thần hoàng bổn cảnh thờ phụng tại đình làng. Cùng với hát hò bả trạo, hát giao duyên thì múa náp là loại hình văn hóa dân gian mang tinh thần thượng võ có giá trị bền vững trong đời sống cư dân làng biển.
Ông Phạm Ngọc Huề, năm nay 93 tuổi là bậc kỳ cựu ở Mỹ Tân. Ông được mời làm “cố vấn” của làng trong các kỳ lễ hội, cúng tế. Ông Huề cho biết, từ khi ông còn nhỏ đã thấy trong làng có múa náp. Các kỳ cúng đình, cúng lăng Ông Nam Hải đều có múa náp. Đội múa náp thường có từ 8 đến 10 người được tuyển chọn từ các trai đinh có đạo đức, sức khỏe tốt. Ông thủ chỉ hướng dẫn trai đinh rèn luyện việc múa náp theo đúng bài bản. Đội múa chia làm hai hàng chịu sự chỉ huy của đội trưởng theo tiếng gõ ra hiệu cặp sênh được làm bằng gỗ dài chừng 30 cm. Người múa náp đầu chít khăn, mặc quần áo rộng, lưng cuốn đai, chân cuốn xà cạp đi giày vải bó như những đội thủy binh thời xưa. Chiếc náp dài khoảng 100 cm, phần lưỡi dài khoảng 40 cm, hình thức như một thanh đao. Người học múa náp phải mất 3-5 tháng chuyên tâm rèn luyện mới có thể thành thạo thế đánh. Các bài múa náp được truyền dạy với tên gọi dân dã cho dễ nhớ: Bái tổ, ba thoi, đá đầu, đánh cán, đánh lưỡi, nhảy ngựa, tạ hàng ngang, tạ hàng xuôi, sắp mặt, sắp lưng, ra lưng, nhảy trái…
Đội múa náp Mỹ Tân luyện tập tham gia Liên hoan Làng biển Việt Nam năm 2011.
Sáng ngày 23-7, tại thôn Mỹ Tân, chúng tôi được chứng kiến buổi tổng dượt lễ cúng nghinh Ông Nam Hải và biểu diễn múa náp. Đây là hoạt động thiết thực của nhân dân địa phương chuẩn bị tham gia Liên hoan các Làng biển Việt Nam diễn ra tại tỉnh ta vào đầu tháng tám. Sau hồi trống chầu vang vọng thông báo với chư thần và dân chúng lễ hội nghinh Ông Nam Hải, ông Lê Văn Xị, 73 tuổi với vai trò chánh tế mặc lễ phục đứng trước hương án đọc bài vọng Ông Nam Hải. Các ông bồi tế và học trò lễ giúp việc cho chánh lễ thực hiện trình tự các bước cúng tế.
Sau bài tế, tiếng trống chầu vang vọng, anh Nguyễn Hữu Hà, 37 tuổi cầm cặp sênh gõ nhịp chỉ huy đội múa náp “chiếm lĩnh” sân lễ. Múa náp là những thế võ với cách đánh nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát thể hiện sức chiến đấu bền bỉ của cư dân thời khẩn hoang lập ấp. Lực lượng ngư dân trẻ khỏe sẵn sàng chiến đấu chống giặc giã, thú dữ để bảo vệ cuộc sống bình yên cho dân làng.”Chúng tôi rất vui mừng khi được tham gia biểu diễn tại Liên hoan Làng biển Việt Nam năm 2011. Đây là dịp để đội múa náp Mỹ Tân cống hiến cho du khách gần xa nét đẹp văn hóa đặc sắc của người dân làng biển Mỹ Tân. Chúng tôi tiếp tục bảo tồn và truyền dạy các bài múa náp cho thế hệ trẻ thôn Mỹ Tân gìn giữ một loại hình văn hóa đặc trưng của cư dân làng biển Việt Nam”, anh Nguyễn Hữu Hà, phấn khởi nói.
Thái Sơn Ngọc
______________________________________
* Rất tiếc chúng tôi chưa tải được hình, sẽ tìm cách tải sau.
Đây là một bài viết quan trọng đối với văn hóa của làng, mong rằng có nhiều phản hồi của những vị biết về điệu múa này.
Minh Hiền
Phản hồi (12)
minhhien (author)
Tháng Tư 28th, 2013 lúc 00:11Thưa anh Hoàng Dục,
Thực tế trước đây tôi vẫn thường nghe nói đến từ “LỘN GƯƠM”,nhưng khi đoàn đi diễn ở Phước Tích thì nhiều người nói là “MÚA NÁP”, tôi thấy thật xa lạ, nhưng e rằng lâu ngày về làng không biết được tên của điệu múa nên tôi viết là “MÚA NÁP”.
Như vậy có thể sau 1975, có người ở các nơi khác về làng thấy điệu múa này lẫn lộn với điệu múa náp nên gọi múa gươm là múa náp?
Nếu đúng tên múa náp gắn cho múa gươm chỉ mới gần đây thôi thì chúng ta phải chỉnh lại cho đúng.
Minh Hiền
Hoàng Dục
Tháng Tư 28th, 2013 lúc 10:33Anh Hiền ơi,
Bài viết của tôi chỉ có mục đích khẳng định cái riêng độc đáo của điệu múa quê mình thôi. Một điệu múa đặc sắc mà bị đánh tráo tráo tên gọi, đúng hơn bị đồng hóa, như vậy khác gì phủ định điệu múa Gươm của làng. Hơn nữa, tôi viết vừa thể hiện niềm tự hào về quê hương vừa ghi lại điệu múa nghi lễ văn hóa dân gian truyền thống của làng mình cho người sau được biết.
Mong anh thông cảm.
Đáng tiếc, bài đăng đã mất đi hình ảnh minh họa nên cũng khó thấy sự khác biệt giữa điệu múa của làng mình với hai làng Tân Mỹ và Mỹ Tân. Anh có thể cho hình ảnh lên được không.
Cám ơn anh nhiều.
Chào thân ái.
Hoàng Dục
Minh Hiền
Tháng Tư 28th, 2013 lúc 21:50Thưa anh Hoàng Dục và bà con,
Chúng tôi đang nhờ bộ phận kỹ thuật đưa hình vào.
Như sự trình bày của anh Hoàng Dục, chúng ta hãy tự hào và khẳng định điệu múa của làng mình là LỘN GƯƠM. Do đó kể từ nay chúng ta phải thống nhất tên gọi là LỘN GƯƠM chứ không còn gọi là MÚA NÁP nữa.
Điều này cũng cần thông báo cho đồng hương làng Kế Môn các nơi rõ.
Minh Hiền
Thành việt
Tháng Tư 28th, 2013 lúc 23:15Anh minh hiền ơi theo cái nhân của em được biết thì ở làng mền hay kêu là lộn gươm cũng không phải là múa gươm nhưng từ ngày làng mền lên phước tích lộn gươm thì em vào mạng của anh viết là múa náp nên em không dám hỏi và cũng không giám thắc nắc chi, vì hiểu biết em có hạn nhưng sáng ni đọc được bài của anh hoàng dục em mới mạnh dạng hỏi, phải chăng em được biết cái tên múa náp thì chỉ có anh và anh hùng kêu mà thôi chứ làng mền chẳng ai kêu tên đó cả lễ lộn gươn thường rơi vào đám ma hoặc việt tiếu họ mà thôi
và tiếp theo hỏi nhỏ anh bài viết của em vừa rồi sao không thấy anh đăng lên phải chăng có vướng mắc gỉ không? bài đó là MIẾU LÀNG VĨNH XƯƠNG trang web vĩnh xương có đăng lên rồi khi em gửi thì 1 giời sau họ đăng lên còn anh thì mấy ngày ni rồi mà không thấy đăng
Thành việt
Tháng Tư 29th, 2013 lúc 15:36không biết dạo này anh minh hiên bận việc gì mà trang web không có ai trực vậy anh
ho phuoc
Tháng Tư 30th, 2013 lúc 07:07Khi đọc bài biểu diễn múa náp, bản thân thật sự băn khoăn . Qua tìm hiểu lâu nay và đọc được bài của thầy DỤC – thành viên ban cố vấn của câu lạc bộ trẻ Kế Môn tại Đà Nẵng, Là kẻ hậu sinh nhưng con xin có thiển ý thế này:
1. Trước giờ con chỉ nghe dân làng mình nói là lộn gươm chứ ít người nói múa gươm, lại chẳng thấy ai nói múa náp. Múa gươm nghe có tính học thuật hơn nhưng dân mình chân chất mộc mạc, múa hay bị lộn nên gọi luôn là lộn gươm cho dễ? ( có đúng không ạ)
2. Đây là điệu múa dân gian mang bản sắc địa phương vùng miền, nên vấn đề lấy tên gọi theo phương ngữ nên được ưu tiên.
3, Nếu là một di tích văn hóa phi vật thể thì nên lấy tên xưa nay hay dùng
Chúng ta nên cân nhăc khi quyết định gọi tên.
Theo con thì gọi là LỘN GƯƠM sẽ phù hợp hơn.
Trân trọng
Hoàng Lý
Tháng Tư 30th, 2013 lúc 22:17Cám ơn Dục đã có bài viết nói ” Về Một Tên Gọi”. Bài viết rất hay và có dẫn chứng tương đối đầy đủ, rõ ràng.
Thú thật, trước đây khi thấy bài và hình ảnh của Đặng Hữu Hùng và Minh Hiền nói về chuyện “múa Náp’ đưa lên trang mạng, tôi cảm thấy nó …sao sao…Lúc đó cũng định có ý kiến hoặc thắc mắc… Nhưng vì xa quê hương lâu ngày qúa, hơn nữa, từ sau năm 1975. Ngôn từ và văn hóa miền Nam đã bị du nhập, biến đổi từ miền Bắc qúa nhiều…Nên khi thấy “múa náp”, cứ nghĩ chắc là một kiểu chữ mới của người ngoài nớ, thành ra im lặng luôn. Hôm nay đọc bài của Dục, với đầy đủ hình ảnh…nguồn gốc, phân tích cặn kẻ, thì mới biết không phải vậy.
Làm văn hoá mà dùng chữ lệch lạc, không đúng, thì ảnh hưởng hay di hại đến ngàn đời. Viết văn hoá “ba trợn” mà đăng trên báo chợ, thì tác hại không bao nhiêu, nhưng nếu nó được đăng trên các trang điện tử, dù lớn hay nhỏ, với hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu người đọc, thì tác hại khôn lường. Vì vậy, cũng xin đề nghị ; Người viết bài, trước khi đưa lên trang mạng, nên coi đi coi lại cẩn thận một chút. Còn người phụ trách, điều hành trang mạng, cũng phải lưu ý, kiểm soát hay kiểm chứng lại những bài gởi đến , trước khi cho đăng. Nếu cần, có thể thay đổi một vài từ ngữ cho thích hợp với nội dung bài viết, thì có lẽ người đọc sẽ thích thú hơn. Đồng ý, bà con chúng ta, không phải ai cũng là nhà văn, nhà báo…chuyên nghiệp, nhưng ít nhất, khi đã viết một bài để đăng lên báo hay trang mạng…cũng nên thận trọng một chút. Và có như vậy, thì người đọc sẽ không có cảm giác bị coi thường.
Xin được có vài ý kiến thô thiển vậy thôi.
Cám ơn Hoàng Dục và Minh Hiền.
Thắc mắc
Tháng Năm 1st, 2013 lúc 06:57vì sao góp ý của bác HOANG LY 30.4.2013 sau góp ý của ho phuoc không thấy nữa ??????
vì sao comment thứ 2 của chú MINH HIEN đổi nội dung???????
mỗi lần đọc, mình đều Prt Sc để lưu lại theo dõi mà.
DangHuuHung
Tháng Năm 1st, 2013 lúc 11:41Chúng ta bàn luận về Lộn Gươm hay v.v..Nhưng một điều kiện tiên quyết là những người đang phụ trách văn hóa tại làng,xã có hiểu được vấn đề là việc chính và trách nhiệm của chính quyền địa phương.Sự kết nối cọng đồng của làng,xã với những mảng xã hội là quá kém.Hãy nhìn xã Điền Hòa,…v.v..ở đó chính quyền luôn trọng trách chính của vấn đề.
Yêu cầu những cán bộ phụ trách văn hóa của thôn,xã phải cùng diễn đàn bàn luận để đưa văn hóa địa phương vào nề nếp và bảo vệ của cộng đồng trước khi ra cùng xã hội.
Đi tham gia,dự những nghi lễ như Khao lề ở đảo Lý Sơn,những lễ cầu ngư của vùng biển đều có nghi lễ NAP để biểu tượng tính đoàn kết và tương trợ trong lúc gặp khó thì họ múa với những mái chèo kết hợp với động tác tập thể khươ chèo rồi cùng hát.Đây cũng là sự hoàn toàn khác biệt với MÚA GƯƠM.Các động tác của múa gươm luôn thuộc về tâm linh với nhịp chân số O đến gài lồng mốt,đôi,tam,tứ,ngũ v.v..thì có ý tưởng cao xa hơn.Động tác xoáy vào trôn Ốc rồi mở trôn thì xét về động tác thuộc triết lý nhà Phật(Nhập-Xuất).
Việc giữ văn hóa làng rất quan trọng vì tổ tiên đã chắt lọc tinh hoa của con người,cảnh vật mới có được điệu múa đến ngày hôm nay.Sự tương phản trong con người làng là phải nhận ra bản chất của vấn đề,rồi cùng chung tay tìm và giữ gìn trong sự đoàn kết bởi chúng ta.Không ai ở địa phương khác làm giúp đâu..?
Tạm bàn về Múa Gươm.Rất mong quý chú bác,cô lớn tuổi kể lại trên diễn đàn làng..từ đó mới sáng tỏ.
Kính.
Đặng Hữu Hùng
Thái Sơn Ngọc
Tháng Sáu 17th, 2013 lúc 21:13Tôi tên Thái Sơn Ngọc là biên tập viên Báo điện tử Ninh Thuận. Tôi thấy hình ảnh và nội dung về múa gươm hay múa náp có nhiều nét tương đồng. Trong quá trình khai hoang lập ấp, đến mỗi miền đất, ông bà xưa có cách thể hiện phù hợp với đặc điểm văn hóa vùng miền. Ở Ninh Thuận gọi múa náp vì đạo cụ là thanh đao dài khoảng 1 mét, lưỡi đao dài khoảng 40 cm.
Thành Được
Tháng Chín 16th, 2014 lúc 19:49Thưa Bác Hoàng Dục. cháu là sinh viên năm cuối ngành Quản Lý văn hóa. Cháu ở Điền Hương gần Điền Môn bác ạ! nay thấy bác đăng bài múa gươm này hay và theo cháu nghĩ nó cần được bảo tồn theo đúng cách. Cháu muốn làm bài tốt nghiệp theo hướng bảo tồn múa gươm. nếu được rất mong bác giúp đỡ.
caulacbotrekemondanang
Tháng Chín 27th, 2014 lúc 23:44CLB trẻ làng Kế Môn tại Đà Nẵng đã có đề án bảo tồn và… nên đã thành lập đội gươm của CLB. hi vọng sẽ được hợp tác với THÀNH ĐƯỢC và được quý đồng hương gần xa hổ trợ trong lĩnh vực này.
email tiếp nhận thông tin: bbtkemon.vn@gmail.com
Bình luận