LÀNG NGHỀ KIM HOÀN 06-09-2010 admin
Mặc dù chúng ta đã quá quen thuộc với những mặt hàng của đồ trang sức hoặc những vật dụng trang trí hay đồ mỹ nghệ bằng vàng bạc nhưng khi nói tới lịch sử, xuất xứ nghề kim hoàn ở nước ta, ít có người quan tâm tới.
Ở nước ta, hai kinh đô Thăng Long và Huế là nơi có lịch sử truyền thống lâu đời mang tính tập trung của những người thợ làm vàng bạc nổi tiếng, những nghệ nhân đó đã được lớp hậu duệ tôn thờ mãi cho tới ngày nay. Ở kinh đô Thăng Long trước đây, làng Đình Công Thượng là cơ sở phục vụ vàng bạc sớm nhất cho kinh thành Thăng Long. Dân gian kể lại rằng, vào cuối thế kỷ VI, ở làng Đình Công có ba anh em họ Trần là Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền, do nghèo khổ dưới ách thống trị của nhà Đường làm cho anh em họ Trần phải tha phương cầu thực tới một nước láng giềng, rồi từ đó họ học được nghề kim hoàn. Khi trở về quê hương, họ truyền nghề cho dân làng. Sau này làng Đình Công có nghề truyền thống vàng bạc phục vụ thị trường ở Thăng Long. Từ thế kỷ XVIII, XIX khi nền kinh tế Thăng Long, Hà Nội ngày một phát triển cao, những nghệ nhân này mới đi dần lên Thăng Long hành nghề bằng chuyên môn của mình là các đồ nữ trang như hoa tai, xuyến, vòng… ở phố Hàng Bạc ngày nay. Thế kỷ XV, khi ngành luyện kim ở nước ta tiến bộ, nghề đúc bạc nén bước vào giai đoạn mới, thoát thai từ làng Châu Khê (huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). ( Nhiều tờ báo đăng nhầm là Trần Khê (huyện Bình Giang, tỉnh Hải Hưng) )
Dân gian kể lại rằng, dưới thới Lê Thánh Tông (1461) trong làng này có ông Lưu Xuân Tín được vua cho phép lập nên một tràng đúc bạc và tiền ở Thăng Long, sau đó làm tới chức Thượng Thư Bộ Lại, rồi được tôn làm thủy tổ của nghề đúc bạc. Về sau, người làng của ông ra Thăng Long hành nghề ngày càng đông. Phố Hàng Bạc được thành lập từ đó. Họ đã xây dựng nên các tràng đúc bạc (nay là 58 phố Hàng Bạc) làm nơi sản xuất. Hai ngôi đình: Thượng Đình (số 50 Hàng Bạc) và Kim Ngân Đình (số 42 Hàng Bạc) là nơi giao nộp thành phẩm cho Nhà nước đương thời. Qua thời gian, nhu cầu về vàng bạc càng ngày càng lớn. Phố Hàng Bạc còn có thêm một số nghệ nhân người làng Đồng Sâm (huyện Kim Sương, tỉnh Thái Bình) đến đây làm ăn sinh sống, với sở trường chạm trổ những đồ vật lớn bằng bạc như hộp trầu, chén bát dĩa, đỉnh, lư đèn…
Ông Tổ của phái này là Nguyễn Kim Lân, sống vào thế kỷ XV. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các Chúa Nguyễn trị vì xứ Đàng Trong, nơi có nhiều mỏ vàng như Bồng Miêu, Trà Kiệu, vàng của dân tộc Chàm (Chămpa) do các vua chúa chôn giấu. Đến cuối đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, có ông Cao Đình Độ, sinh năm 1746, người làng Cẩm Tú, tỉnh Thanh Hóa, sống bằng nghề bịt đồng thau (hàn khay gãy, bịt chén bể) nhờ đôi tay khéo léo, thông minh sáng tạo, ông học nghề kim hoàn với một Hoa Kiều và đã trở thành một nghệ nhân đặc biệt. Sau đó thành nghề, ông mang vợ và con trai của ông là Cao Đình Hương (sinh năm 1773) vào Thuận Hóa, lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc huyện phong Điền – Thừa Thiên Huế) được Hoàng đế Quang Trung triệu cả hai cha con vào cung, lập Cơ vệ ngành ngân tượng, chuyên làm đồ trang sức cho Hoàng Gia. Sau ngày Nguyễn Ánh chiếm Thuận Hóa, tất cả những thành tựu văn hóa được xây dựng thời Tây Sơn đều bị phá hủy. Riêng ngành ngân tượng vẫn giữ nguyên. Ông Cao Đình Độ và con trai của ông bị buộc phải tiếp tục phục vụ cho vua quan nhà Nguyễn.
Cả hai cha con đều được tôn vinh là đệ nhất và đệ nhị Tổ sư nghề kim hoàn tại Huế. Đến nay, truyền thừa đã được hơn 7 đời, phát triển vào khắp miền Trung và Nam, vào ngày giỗ Tổ, các thợ kim hoàn xuất xứ ở đây đều tựu về Tổ Đinh kim hoàn thăm viếng và dâng hương đông đảo. Lăng mộ của hai ông được kiến trúc công phu, trang trọng, bề thế và đẹp đẽ. Chất lượng của vàng bạc rất phức tạp, chúng ta có vàng lá (còn gọi là vàng điệp, vàng 10 tuổi dưới dạng lá mỏng, như vàng lá Kim Thành). Vàng nén (hay còn gọi là vàng ròng, dưới dạng thỏi, mỗi thỏi nặng mỗi yến, theo cân Trung Quốc). Vàng Hời (vàng chôn dưới đất lâu năm của dân Chàm ngày xưa, vàng này có pha lẫn với nhiều bạc, nên có màu vàng xanh, từ 6 đến 6,5 tuổi, thường đào lên gặp quả cau, con rùa, con cua, buồng chuối, ông Phật…) Vàng Bồng Miêu (hiện đang khai thác quy mô ở Quảng Nam – Đà Nẵng, đó là loại vàng sa khoáng, có dạng hạt tấm, bụi cát, lẫn trong đất cát hoặc ẩn bên trong đá). Vàng Tây rất nhiều loại, người ta đánh giá vàng Tây bằng Karat (khác với karat đo trọng lượng hạt xoàn), có 10K, 12K, 14K, 16K, 18K, 20K, 24K. Có loại nhập cảnh dưới dạng nữ trang, có loại hộp chế gồm hợp kim đồng, bạc với vàng ta, để thành vàng Tây. Vàng hóa học thường dùng trong mỹ nghệ, thường điều chế để bịt răng hoặc trang trí dưới nước, loại vàng này ở dưới nước vẫn bóng loáng quanh năm, gặp không khí lâu ngày sẽ bị thâm đen. Đồng thòa (còn gọi là Đồng xứng, là hợp kim 50% vàng ta, 50% đồng đỏ, vàng thường làm bông tai để đeo). Vàng chân là loại trang sức bên trong bằng bạc hoặc đồng, nên ngoài chỉ đọc một lớp vàng như khâu chấn, bông búp chấn. Vàng xi mạ (dùng dòng điện xúc tác bao phủ một lớp vàng thật mỏng trên đồ trang sức bằng bạc hay đồng, thoạt trông như đồ vàng thật).
Thợ kim hoàn ở tỉnh nào cũng có, mà tập trung nhiều nhất là ở TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ… sản xuất các mặt hàng nữ trang tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
(Nguồn :http://www.chaukhe.com/SKVC/ha-noi-lang-nghe-kim-hoan/1518/vi/ )
Phản hồi (1)
Trương Phước Du
Tháng Tư 5th, 2011 lúc 09:50Làng Kế Môn, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, Huế, nghề làm kim hoàn nổi tiếng trên 300 năm nay. Vị tổ của làng là ông Cao đình Độ (người làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa). Thợ làm vàng Kế Môn từng được vua Quang Trung rồi triều đình Nguyễn trọng dụng. Họ để lại biết bao nhiêu công lao khó nhọc và tay nghề tinh xảo của họ khắp nơi, trên vách tường, trên những lọng, những món đồ trang sức cho triều đình và gia quyến của Vua. Chính họ đã làm ra một cây gọi là: “Cành Vàng Lá Ngọc” để kế bàn làm việc của vua Minh Mạng.
Làng Kế Môn dài gần 2 cây số, tựa lưng vào chân động cát trắng phía sau, ngăn cơn gió độc của gió Lào thổi về, chặn ngọn sóng dữ biển Đông. Trước mặt làng là cánh đồng chua mặn trãi dài ra phá Tam Giang. Mỗi năm dân làng cấy cày rất cực nhọc một mùa lúa không đủ ăn mà thôi. Làng dựng nhà, lập vườn, dựng từ đường, văn chỉ, miếu mạo, đình chùa. Tất cả đều phải hướng về phía Đông Nam (theo như thầy địa lý người Tàu quả quyết như vậy) lấy Trường Sơn làm án. Làng cách xa đường sắt, đường bộ và cách kinh thành Huế chừng 40 cây số ngàn. Một làng quê rất bình thường như trăm ngàn làng quê nước Việt, nhưng gây một dấu ấn ngàn đời không phai.
Để lại tiếng thơm tỏa khắp xứ đàng Trong, kể tử Kẻ Chợ (Hà Nội/ miền Bắc) suốt thời gian lịch sử, chiều dầy lên đến hơn 300 năm. Đó là do công của Người và Nghề của làng Kế Môn.
Dân thợ vàng Quảng Trị đều thờ ông làm tộ thợ vàng, sách gia phổ nói về ông như sau:
Vào cuối đời Võ Vương Nguyễn phúc Khoát, làng Kế Môn có thêm một đơn vị gia cư mới, mà gia chủ là Cao đình Độ, 1735, từ làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thũy, tỉnh Thanh Hóa di cư vào. Khin ông đến làng Kế Môn thì trong mình ông là có một tay nghề đã cao cấp rồi. Theo nội quy của làng, thì những cư dân mới đến phải làm công quả cho làng đúng 3 năm thì làng mới xét đơn.
Công quả gồm: giết heo, gánh nước, rửa nhà việc, đắp con đường, trồng cây cho nhà làng, rồi phải khiêng lọng cho chức sắc làng thì toàn thể gia đình mới được làng chấp thuận cho vào làng.
Nhưng làng thấy Ông Độ giỏi về nghề làm vàng nên phá lệ cho phép ông vào thẳng từ ngày đầu tiên và gia đình 25 người được miễn phu phen tạp dịch với điều kiện là phải dạy làng làm nghề Vàng. Nói tóm lại, từ một người xa lạ, vào thẳng thành. Thầy cũa làng luôn. Từ đây làng phải nghe ông mà mài dao để tách vàng, đốt bể lửa để thổi vàng, dùng bùa cây mà nện nhựng miếng vàng mỏng. Coi vậy còn cực hơn gánh nước, rửa sân làng nữa. Nhưng sau đó sẽ thành thợ giỏi về vàng và Vua Chúa không thình lình bắt đi đánh giặc ngoài trận tiền. Cái nào sướng hơn? Và khi trở thành thợ giỏi thì chính vua hay Chúa còn cho người ra thăm hỏi khúm núm chừng nào cái khay cái kim giắt tóc của hiền thê ta xong? Oai biết chừng nào.
Oâng Cao đình Độ thường tâm sự: “vốn xưa ông chỉ rành nghề đồng, nghề giỏi là làm chuông làm trống cho chùa đâu có oai, chùa nghèo làm xong cai chuông đồng thì hết tiền thợ đói là cái chắc. Rồi xoay làm thợ thiếc, bịt khay chén, vá nồi mâm cũ của vài gia đình có ăn, thợ nghèo vẫn hoàn nghèo. Còn nghề làm vàng thì phải qua tận bên Tàu mới hy vọng, nhưng thợ vàng bên Tàu đâu có truyền nghề cho dân Á Nam dành? Để học được nghề kim hoàn, ông Độ phải lên kinh đô Thăng Long mới được, muốn vào tiệm kim hoàn của người Tàu là một chuyện không phải dễ gì… Họ giấu nghề cho đến người con gái ruột của họ cũng không được học mà. Vậy thì phải làm sao? Oâng Độ xin vào một chân gánh nước, thổi lò, vì nghề kim hoàn rất cần đến thủy và hỏa mới động được kim, phải biết chất sinh khắc của vàng, bạc, cũng phải biết cách pha trộn chất đồng vào vàng bao nhiêu phân thì vàng mới rực lửa được… Nhưng kỹ thuật khó nhất là cách móc khoét khuôn, chế tạo dụng cụ đồ nghề bằng tay khéo của mình, rồi phải biết trình bày mẫu hàng cho đặc sắc, như phải biết đánh dây chuyền, biết cách lộn vòng những miếng vàng nho nhỏ cho đẹp… Móc khoét khuôn theo mặt trái, khi đóng dát vàng bạc vào thì gỡ ra mới thành mặt phải, nổi cộm v.v… Móc khoét khuôn xem như đi được nửa đoạn đường. Rồi phải biết cách cấm kỵ về nghề kim hoàn, ăn thức ăn gì mà vàng sẽ bị dễ hư dễ đứt… Đó gọi là kiêng kỵ của nghề kim hoàn mà người Trung Hoa rất dấu kỹ, có nhiều học trò rất khéo tay, nhưng không biết kiêng kỵ thì vàng đem ra khỏi khuôn rất dễ hư màu. Oâng Độ với 9 năm ròng rã từ culi, đến thợ sai bảo, rồi thợ phụ, rồi thợ chánh nhờ tánh tình siêng năng, nhất là không có lòng tham thì chủ rất hoan hỉ mà dạy người thợ khác chủng tộc với mình. Người chủ đã thử lòng tham của ông Độ rất nhiều lần. Khi học xong nghề kim hoàn của một tiệm kim hoàn người Tàu tại Kinh Đô Thăng Long, thì thời gian sau chủ tiệm qua đời, trước khi mất có nhờ ông đưa dùm hài cốt mình về Tàu tại Long Châu (gần Thượng Hải bây giờ), nơi đây ông dược người Hoa thương mến dạy cho ông nhiều kỹ thuật tinh xảo mà tại Thăng Long chưa có được.
Oâng Độ trở về làng Cẩm Tú (làng này rất gần thành tây Đô nhà Hồ), đưa cả gia quyến vào đàng Trong lập nghiệp, rồi mở lớp dạy nghề tại làng Kế Môn (đã nói phần trên). Oâng Cao đình Độ còn có người con trai trưởng rất khéo tay tên là Cao đình Hương giúp sức. Rồi tất cả làng Kế Môn đều là học trò của ông hết. Làng này còn gọi tục danh là làng Kim Hoàn hay làng Thợ Vàng xứ Kế Môn/ Quảng Trị. Đến dưới triều tây Sơn, cha con ông Độ được vua Quang Trung vời vào cung / kinh đô Phú Xuân dạy cho thợ kinh đô của vua, rồi ông được lập làm chủ soái đội “Ngân Tượng ” (nghĩa là đội chuyên nghề làm vàng cho triều đình Tây Sơn), ông được chức Lãnh Binh coi hơn 100 tay thợ. Sau khi Quang Trung mất và triều đại Nguyễn Aùnh lên, tất cả ngành nghề có liên quan đến vua Quang trung đều bị vua Gia Long tru lục, đày ải riêng ngành Ngân Tượng vua vẫn giữ nguyên, được cấp thêm lương bổng và hậu đãi hơn nữa. Vì lúc này sứ giả nhà vua sang Tàu nườm nượp để xin xỏ vua Tàu, nên những món hàng kim hoàn biếu xén không thể nhìn thấy tô kệch, nhà quê được.
Năm 1810 ông Cao đình Độ qua đời, năm 1821 ông Hương cũng qua đời triều đình nhà Nguyễn cho cử hành nghi táng rất long trọng, cho đất chôn gần tây nam kinh thành (tại Aáp Trường An), rồi được phong là Đệ Nhất Tổ Sư Kim Hoàn nước Việt, ông Hương được phong là đệ Nhị Tổ Sư Kim Hoàn nước Việt, một người tay thợ giỏi khi chết được phong tặng là điều vô cùng khó thấy trong triều đại vua chúa từ trước đến giờ. Rồi hàng năm vua ra lệnh cho lấy ngày mồng 7 tháng 2 (âm lịch) làm giỗ Đệ Nhất, và ngày 27 làm giỗ Đệ Nhị Tổ Sư. Trước đây những người con cháu từng học qua nghề của Oâng đều có hình thờ ông khắp nơi trên nước Việt hay những người hành nghề Kim Hoàn cũng thờ hình ảnh của ông. Rồi họ lập một nhà thờ tổ Kim Hoàn gần chùa Diệu Đế (phường Phú Cát, Huế) để tưởng nhớ công đức khai sáng nghề kim hoàn nước Việt không thua kém nghề kim hoàn của người Tàu bên cố quốc.
Dưới bàn tay mềm mại của Oâng thì thỏi vàng vô tri giác sẽ biến hình thành một con sư tử hay một con Rồng vươn mình chực bay lên với vi vẩy lóng lánh trên ánh sáng đèn hay ánh sáng Thái Dương… Với 30 năm dạy nghề, 2 Vị đã tạo trên ngàn người thợ giỏi tinh xảo và hàng ngàn người này lại dạy con cháu đời sau liên tiếp kế truyền mãi. Thử nhìn trên Thế Miếu, Phủ Điện, Chùa Chiền, những chữ Vàng trước cổng Ngọ Môn, các hoành phi bửu tán, câu đối trong điện Thái Hòa, nhủ vàng bịt bạc ngai vua ghế chúa, ấn triện, tráp văn, giày hài, áo mủ cân đai, tiền Phi Long Đai Hạng (sẽ nói kỳ sau), làm Kim sách (của vua Minh Mạng cho con cháu trực hệ Minh Mạng ), làm Ngân Sách (cho con cháu trực hệ dòng Gia Long). Cây vàng lá ngọc, khí tự thờ cúng các miếu đường lăng vua. Rồi những món trang sức cho các cục cưng của vua chúa v.v…
Ngày nay với Hiệp Hội Kim Hoàn mà người Kế Môn làm đầu não có lời thề trước khi nhập môn, vậy đố bạn lời thề thế nào? Xin thưa “trước Tổ Sư cấm làm vàng giả. Và nếu thợ nào mở tiệm làm vàng, ngoài giấy phép hành nghề của nhà nước, thì anh ta phải có giấy chứng nhận của Hiệp Hội Kim Hoàn Kế Môn thì anh ta mới được người ta Tín vì anh đã có lời thề trước bàn thờ Nhị Vị Sư Tổ rồi.
Tôi đã thấy tiệm vàng hành nghề tại Pleiku (gần rạp hát Diệp Kính) cũng là người Quảng Trị Kế Môn, rồi tại Saigon (gần cửa Đông chợ Bến Thành ) có tiệm vàng 2 con cọp (mà lúc nhỏ tôi leo nhưng vì lưng cọp dốc và sơn vàng trơn láng nên tôi té dập mũi, rồi còn về bị ăn đòn nữa chớ) đó là tiệm vàng tên là Thế Năng, Thế Tài cũng dân Kế Môn. Hiện nay tại thành phố Saigon có hơn 2000 tiệm kim hoàn, mà hơn đến 1700 tiệm tiệm là người làng Kế Môn rồi.
Tại nhà thờ họ Phan (Kế Môn) Oâng Hoàng Điệc (người tinh thông Hán Việt và Pháp, giữ chức ký lại cho làng chuyên ghi những gia phả con cháu trong làng cùng làm hộ tịch trước năm 1945 họ truyền tụng vàng rất nhiều, rất tốt, rất đúng phân lượng ngày xưa là của ông Viên Hạ nhưng đặc biệt làng Kế Môn tuy vang danh thiên hạ, nhưng không một con cháu nào đô đạt làm quan được hết, nhưng ngày nay họ xuất dương ra hải ngoại thì địa lý phong thủy làng Kế Môn thay đổi rồi, có người đậu kỹ sư, Bác Sĩ, Dược Sĩ nhưng tất cả đều quên hết nghề tổ. Khi học nghề tổ cho dù 1 ngày thì sẽ không thành danh đỗ đạt đâu, và nếu học nghề vàng thì luôn luôn không nghèo. Kỳ sau tôi sẽ nói đến vàng nguyên chất của Quảng Trị, mà người Chàm để lại, tôi sẽ nói đến những tinh vàng hiện khi trăng sáng ngày rầm, và cách lấy khi tinh vàng hiện lên. Chuyện này không phải đùa, mặc dầu người Kế Môn hay những người học vàng từ người Kế Môn ở tại đây rất nhiều (trong nước hay tại hải ngoại). Nói một chuyện không có đối với nguời có nghề Vàng là chuyện không phải dỡn chơi. Vâng kỳ sau tôi sẽ nói (có thể hỏi anh Thinh Quang, nhà học giả, nhà văn lão thành có biết phần nào câu chuyện tinh vàng hiện lên khi trăng rầm.)
Sagant Phan
2003-11-15 10:48:30
Bình luận