TỔ NGHỀ KIM HOÀN 05-02-2011 minhhien
Ông Cao Đình Độ sinh năm 1744 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục của đạo Nho. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng. Thế nhưng, niềm đam mê lớn trong ông là trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc. Ước mơ mãnh liệt ấy ngày đêm luôn thôi thúc, buộc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề, ông phải cải trang người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Trung Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc.
Tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm kim hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được biết quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.
Năm 1783, Ông Cao Đình Độ đưa vợ con vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp và truyền nghề cho con. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, cong trai ông – Cao Đình Hương, tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Tại Thuận Hóa, Ông Cao Đình Độ có thu nhận để tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề kim hoàn từ đó.
Dưới thời vua Quang Trung, danh tiếng Ông Cao Đình Bộ được lan truyền đến triều đình. Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập cơ vệ Ngân Tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh Binh, cùng gia đình sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà.
Đến khi Nguyễn Ánh lập nên triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, tất cả mọi thành tựu văn hóa dưới triều Quang Trung điều bị phá hủy, chỉ duy nhất ngành Ngân Tượng được bảo tồn. Hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề kim hoàn trong cung điện.
Năm 1810, Ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp của cha trong triều với chức quan Lãnh Binh, nhưng bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề kim hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Cao Đình Hương quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Nghề kim hoàn ở miền Trung từ đó mà được nhân rộng.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền ngược ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề kim hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Ở miền Nam, nghề kim hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào Phương Nam. “Đất lành chim đậu”, điểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn, nơi có thương cảng sầm uất, hội tụ thương hồ từ các tỉnh lân cận, kể từ Cao Miên (Campuchia), Xiêm La (Thái Lan), đến buôn bán náo nhiệt. Ba ông chọn địa điểm cách Chợ Lớn khoảng một dặm (cảng Bình Đông ngày nay) mở lò thợ bạc tại đây lại có điều kiện phát triển rộng khắp.
Sau khi truyền nghề cho 36 lò thợ bạc ở Chợ Lớn, anh em họ Trần lại tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, ngược qua Campuchia, Thái Lan… rồi qua đời ở đâu không ai biết. Nếu như tiền tổ họ Cao có công khai sáng nghề Kim Hoàn, thì họ Trần, Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề Kim Hoàn trên khắp đất nước, suốt từ Bắc vào Nam. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư đời thứ Hai của ngành kim hoàn Việt Nam.
Công lao của các tổ sư kim hoàn không chỉ được người đời sau luôn ghi nhớ, mà còn nhận được nhiều sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại nhà thờ tổ nghề kim hoàn ở Huế và Lệ Châu hội quán (Thành Phố Hồ Chí Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của các vua nhà Nguyễn. Đó là hàm cấp bậc “Tiến sĩ khai hóa Kim Ngân” với phẩm tước đại triều “Dực Bảo Trung Hưng”, chức Lãnh Binh của vua Gia Long cho ông Cao Đình Độ. Sau khi mất ông còn được truy phong thêm tước hiệu “Đệ Nhất tổ sư”. Đến thời vua Minh Mạng, hai cha con Cao Đình Độ, Cao Đình Hương được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò Bổn Xứ – khai hóa kim ngân Thế Tổ Cao Đình Độ tọa thần vị – Cao Đình Hương linh thần vị”, phong tước hiệu “Đệ nhị tổ sư” cho ông Cao Đình Hương, được ban đất xây lăng như các quan đại thần. Đời vua Khải Định năm thứ 9 và Bảo Đại năm thứ 13, hai ông được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần” cho người có công khai sáng ngành kim hoàn Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của hai vị Tổ nghiệp, hằng năm, các thợ kim hoàn miền Trung (Huế) tổ chức lễ giỗ tổ Ông Cao Đình Độ vào ngày 27-2 (âm lịch). Tại làng Định Công (Hà Nội), giỗ tổ sư họ Trần, Phan Thiết giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Qua những biến chuyển của thời đại, nghề kim hoàn không bị mai một mà còn được lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dù ngày nay, vàng bạc được sản xuất chủ yếu trên dây chuyền hiện đại, nhưng tổ thờ vẫn được coi trọng và tôn thờ
Cuộc Sống Việt _ Theo Diễn đàn du lịch
|
Bình luận
Chưa có bình luận nào.
Bình luận