KẾ MÔN QUÊ TÔI 26-10-2010 minhhien

Chúng tôi thấy bài vè Kế Môn Quê Tôi của nhà thơ Nam Sơn (Hoàng Đông) dường như đã giới thiệu toàn cảnh làng Kế Môn (trong khoảng cuối thập niên 60). Ngày nay cảnh làng tuy có khác nhưng bài vè này là Kỷ vật một thời. Xin trân trọng giới thiệu.

KẾ MÔN QUÊ TÔI

Bao giờ trở lại quê hương

Nhìn Ô Lâu biếc một đường chảy ngang

Nhìn vào đồng ruộng mênh mang

Bốn con hói dọc, hói ngang nối dài

Bờ rào rồi đến đường quai

Đứng giữa cồn nổi ngắm hoài thêm mê

Năm bến tròng nốt bộn bề

Đến mùa gặt hái đông quê rộn ràng

Bến Đíu nằm trước đình làng

Sau độn Lại tải trấn an dân mình

Đường ngang nằm ở sau đình

Hai bên hai họ Trần Huỳnh xinh xinh

Đường quan số tám trước đình

Nối liền Quảng Trị dân tình bán buôn

Ngũ Hành miếu ở cuối thôn

Lò rèn, xóm Đập, Mội trong dân hiền

Họ Nguyễn thờ sát lò rèn

Dân họ đóng góp của tiền dựng nên

Dòng khe Đại Lộc kế bên

Chảy ra Đồng Dạ bọc miền ruộng ta

Nhìn lên trên Khút xa xa

Hàm rồng, hói Gạch thẳng tòa Vĩnh Xương

Vào làng chỉ có một đường

Sau ranh độn cát Vĩnh Xương bào cồn

Miếu Bà Chúa Ngọc đầu thôn

Rồi qua Văn Thánh giáp rồn Miếu Đôi

Xưa kia Hán học thi rồi

Vinh quy bái tổ, hoa khôi bảng vàng

Lui về theo dọc đường ngang

Phía trên nhà ở lớp hang phân minh

Mỗi xóm có lũy tre xanh

Mỗi nhà có giếng nước lành trong veo

Nhà khá cho đến nhà nghèo

Bước vô sân ngõ giếng ao gọn gàng

Họ Bùi họ ở đầu làng

Thành nội, thành ngoại cẩn đàng lầu cao

Tiền đường hậu trẫm đẹp sao

Lưỡng long triều nguyệt khác nào cung vua

Trên rú bàu Đán thuở xưa

Nước chảy cứu hạn đồng Trưa của làng

Thiên Chúa thờ sát đường ngang

Dân họ mới lập lợp tràn bằng tôn

Ở đời kẻ dại người khôn

Đừng cậy quyền thế tiếng đồn tràn lan

Thôi về họ Đặng, họ Phan

Huỳnh Ngọc gần rú lợp toàn bằng tranh

Rồi xuống hai họ Nguyễn Thanh

Đi qua xóm Cụt vòng quanh lên cầu

Khe phụ nước chảy về đâu

Chảy ra Đạt-Khẩn ở sau trường làng

Thổ Kỳ miếu vũ cầu an

Họ Lê trước xòm đàng hoàng đẹp thay

Họ Huỳnh mới bến nơi đây

Nhân dân bốn bến lập xây nhà thờ

Rồi qua xóm Cụt hiện giờ

Trước trường chữ Hán, nay vừa chữ ta

Họ Phan cách xóm không xa

Dân họ ít ỏi làm nhà thờ riêng

Trần Đình cách xóm kế bên

Trần Đăng gần rú, Nghè liền phía sau

Xưa kia võ tướng công hầu

Oai linh hiển hách đâu đâu kiêng vì

Khi làng có chuyện lâm nguy

Ăn chay cầu đảo vậy thì bình an

Huỳnh-Trần hai họ sau làng

Nhà thờ lợp ngói cửa đàng thành xây

Bàu Môn sau rú đâu đây

Ở nơi chân độn thẳng ngay đình làng

Ngôi chùa Vạn Phước huy hoàng

Phụng bay, rồng lộn tiền đàng nguy nga

Hai lầu chuông trống vang xa

U minh cảnh tỉnh dân ta tháng ngày

Điện thờ tượng Phật đẹp thay

Xa gần đóng góp dựng xây chua chiền

Canh Tý đặt đá đầu tiên

Giáp Thìn sáu bốn hội phiên khánh thành

Trống cờ rợp đất đua chen

Mười phương lễ bái lạ quen nghẹt người

Đường ngang đi thẳng về xuôi

Họ Hồ trầm tĩnh một trời nhứt đông

Rồi qua cho đến xóm Cùng

Ghé am Võ Thánh Quan Công phụng thờ

Trần Đình mới dựng bây giờ

Bình phong cửa ngõ đơn sơ gọn gàng

Rồi ra ngoài đập cuối làng

Có ngôi tân miếu bế nàng rất linh

Xưa kia quan Võ triều đình

Có vợ Đại Lộc ngoại tình thơ rơi

Trung cang nghĩa khí nhất thời

Vì vợ vu cáo cuộc đời thác oan

Luôn luôn phò hộ dân làng

Mỗi năm Tết đến đặt bàn cẩu yên

Băng qua độn cát thấy liền

Thấy khe Ngòi Viết giáp nguyên Truông Tàu

Đồng khoai trồng mãi đến đâu

Từ khe Đại Lộc đến bàu Vĩnh Xương

Bàu Nức,bàu Bể, bàu Cuồng

Bàu Rèn lấp trước thấy dương mã ngài

Trần Huỳnh Thỉ Tổ bên ngoài

Bên trong mồ mã kéo dài khắp thôn

Mã lớn cho chí mã con

Lăng bia chen chúc độn trong độn ngoài

Âm hồn tảo mộ tháng hai

Thờ ba ngôi miếu điện đài phân minh

Rồi ra ghé lại thăm Đình

Năm căn hương án thần linh phụng thờ

Bình phong ngoài thẳng cột cờ

Hai bên trường học đình thờ chữ môn

Đến khi có lễ toàn thôn

Nhân dân lễ bái bảo toàn thuần phong

Hương xông trầm đốt đèn chong

Thần Hoàng cảm niệm ghi công Tiên hiền

Khai canh, khai khẩn đầu tiên

Tạo dựng cơ nghiệp thổ điền cho dân

Đồng trưa (1) động ruộng mênh mông

Huyền Cồn, thót cửa, chứa nôn khác làng

Cày sâu cuốc bẩm làm ăn

Mỗi năm hai vụ đủ phần ấm no

Khi nên trời cũng giúp cho

Làm ruộng phải tính, phải so mới giàu

Tha phương cầu thực đâu đâu

Mỗi năm Tết đến rũ nhau về làng

Thợ nề, thợ mộc, thợ vàng

Nề,mộc tương đối nghề vàng làm nên

Bánh bèo, bánh ướt quay kem

Đầu lạ đắp đổi sau quen lắm tiền

Luôn luôn nhớ đến tổ tiên

Mỗi năm Tết đến thay phiên nhau về

Bà con chú bác bốn bề

Thăm mồ thăm mã, thăm quê của mình

Rồi ra ghé lại thăm Đình

Nhờ phong thổ tốt dân mình làm nên

Muốn cho tài lộc vững bền

Kế Môn đất Huế phải nên trở về

Góp tiền xây dựng hương quê

Bồi đắp xứ sở tưởng về hậu lai

Dân làng bất cứ ai ai

Kế Môn hai chữ nhớ hoài đừng quên.

Nam Sơn (Hoàng Đông)

Phản hồi (2)

  • Võ Trung Chương
    Tháng Mười 19th, 2011 lúc 04:31

    Bà̉i thơ này hay quá, bao quát cả những gì mà Kế Môn làng ta có. người làm cũng tài thật, kết hợp tất cả các tên của Họ, Đình, Chùa, Bến, ruộng, đường xá, …

  • Pham hong khanh
    Tháng Mười 19th, 2011 lúc 11:45

    Ngày đi ra đứng đầu làng
    Thề non hẹn biển vinh danh ngày về
    Con đi mẹ khóc nảo nề
    Than rằng: xa xứ biết về khi mô
    Bây giờ lúa đã bao mùa trổ
    Tóc mẹ nhuốm màu thề nớ trôi sông
    Nhớ quê xứKế đau lòng
    Công danh chưa toạí long đong quê người

    Biết khi mô vế 19-10

Bình luận

get avatarWant your picture next to your comment?
Join Gravatar and upload your photo, completely free! (opens in new window)

Tên *
E-Mail *
Trang web


Tin tức khác